Kỷ niệm 77 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 – 19/12/2023)
Bom ba càng – Biểu tượng của ý chí quật cường, nỗi kinh hoàng với quân Pháp
Nỗi kinh hoàng của quân Pháp và cũng là một trong những ấn tượng sâu sắc nhất trong mùa Đông năm 1946 tại Hà Nội là những quả bom ba càng, vũ khí được đội cảm tử quân dùng để tiêu diệt xe tăng, xe bọc thép của địch.
Theo ông Phan Sử, nguyên Phái viên tác chiến đặc khu Hà Nội trong những ngày toàn quốc kháng chiến cách đây tròn 70 năm, bom ba càng được coi là biểu tượng của tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, gắn liền với cuộc chiến đấu 60 ngày đêm của quân và dân Thủ đô chống lại thực dân Pháp.
Ðầu năm 1946, khi vào Hà Nội, quân Pháp có một số phân đội xe cơ giới đi cùng. Đó là xe tăng 18 tấn có gắn đại bác 40 ly, xe bọc thép bánh hơi gắn đại bác 20 ly, trên các tháp pháo xe tăng, xe bọc thép đều bố trí súng đại liên; xe bọc thép bánh xích có hai tổ súng 12,7 ly và súng đại liên Brown. Ðây là lực lượng cơ động, đột kích lợi hại mà ta sẽ phải đối mặt trong chiến đấu.
Vào cuối tháng 10 đầu tháng 11/1946, tình hình ngày càng căng thẳng, quân Pháp đã có những hành động khiêu khích, gây hấn; xe tăng, xe bọc thép cơ động rầm rập trên các tuyến phố. Chúng còn cho máy móc san lấp chiến hào, chiến lũy, ụ súng của ta. Vì tránh không để chúng kiếm cớ gây chuyện làm cho tình hình thêm phức tạp, trong khi cần thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến lâu dài, quân dân ta đã hết sức kiềm chế trước những hành động khiêu khích của chúng. Cũng trong tháng 11, Cục Quân giới (Bộ Quốc phòng) cấp cho Mặt trận Hà Nội ngót 100 quả bom ba càng, hơn một nửa số bom này được dành cho Liên khu I, nơi có nhiều khả năng phát huy hiệu quả diệt xe cơ giới địch.
Bom ba càng (cấu tạo theo nguyên lý đạn bom như đạn Bazoka, B40, B41 sau này) có dạng hình phễu, miệng phễu đường kính 22 cm, có vành gang gắn ba càng sắt, mỗi càng dài 12 cm; đáy phễu là bộ phận gây nổ, gồm hạt nổ, kim hỏa và chốt hãm an toàn; bom được lắp vào một cây gậy gỗ dài 1,2 m.
Tuy chỉ được sử dụng trong quãng thời gian ngắn ngủi nhưng loại vũ khí thô sơ này và những người sử dụng nó lại có vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử quân đội ta.
Sau khi rút ra vùng kháng chiến, Bác Hồ đã chỉ thị không sản xuất bom ba càng nữa bởi sự hy sinh, mất mát là quá lớn. Những người nhận nhiệm vụ đánh bom ba càng ra đi đều không trở về. Họ còn rất trẻ, người lớn tuổi cũng chỉ mới ngoài 20. Khi ra trận, sự sống và cái chết rất mong manh, nhưng với nhiệm vụ ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch thì người chiến sĩ đã thấy trước sự hy sinh.
Chính vì vậy, hình ảnh cảm tử quân Thủ đô đánh bom ba càng đã được ghi vào sử sách, trở thành tấm gương, niềm tự hào và động lực cho thế hệ trẻ Việt Nam noi theo.
Hành động của các cảm tử quân là biểu tượng cho ý chí quật cường, thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước của đồng bào, chiến sĩ cả nước nói chung, quân, dân Thủ đô Hà Nội nói riêng và đó cũng là nỗi kinh hoàng của quân xâm lược.